Hãy tử tế với chính mình khi bạn phạm sai lầm(khi không thể tránh khỏi) sẽ cho đời hạnh phúc hơn.
Tác giả: Mark Leary
Mark Leary là tiến sỹ bộ môn tâm lý và tâm thần học tại trường đại học Duke ở bắc Carolina. Ông là tác giả tựa sách The Curse of the self(Lời nguyền của bản ngã) 2004.
.
Con người tự gây ra đau khổ cho mình.
Các nhà tâm lý học đã tiêu tốn nhiều cố gắng để hiểu được cách mà mọi người nhìn nhận chính mình. Động vật khác nhau chắc chắn sẽ khó chịu khi chúng trải nghiệm những sự kiện tiêu cực, nhưng chỉ có con người là nuôi dưỡng những cảm xúc tiêu cực đó thông qua cách đánh giá nhìn nhận chủ quan, kì vọng, hối tiếc và nhận thức.
Trong nhiều năm, nghiên cứu đã luôn chỉ ra rằng lòng tự trọng luôn có liên quan đến hạnh phúc, như hình tượng chính mình tốt đẹp là thành tố quan trọng trong công thức của một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa. Thấy được mối liên hệ giữa lòng tự trọng và cuộc sống đáng mơ ước, nhiều bậc cha mẹ đã cố gắng hết sức để đảm bảo con cái của họ có được cái nhìn tích cực về chính mình, những giáo viên thì luôn cố đưa ra những nhận xét theo cách không làm tổn hại lòng tự trọng của trẻ, và nhiều người tin rằng lòng tự trọng nên được công nhận rộng rãi như là một phương thuốc hóa giải những sự cố cá nhân cũng như những căn bệnh xã hội. Tiêu biểu như cuộc vận động đề cao lòng tự trọng trong những năm 80 khi hội đồng bang California đã dành ra những quỹ cho chương trình nâng cao lòng tự trọng của công dân, với mục tiêu cuối cùng là giải quyết những vấn đề như bạo hành trẻ em, tội phạm, nghiện ngập, mang thai ngoài mong muốn và sự ỷ lại vào phúc lợi. Những nhà kinh tế thậm chí còn hy vọng rằng, như một lợi ích kéo theo, nâng cao lòng tự trọng sẽ cải thiện kinh tế của cả bang.
Theo góc độ nào đó, quan tâm đến lòng tự trọng có vẻ rất tốt. Những nghiên cứu tâm lý chỉ ra rằng thành công và hạnh phúc có liên quan đến lòng tự trọng cao, và rằng những người với lòng tự trọng thấp thường phải trải qua nhiều vấn đề về cảm xúc và hành vi khác nhau. Tuy nhiên, lòng tự trọng đã không đạt được những gì nó được kì vọng. Không chỉ mối liên hệ giữa lòng tự trọng và những thành quả tốt ít hơn nhiều so với những đức tính khác, mà khi nhìn sâu hơn vào thực tế thì lòng tự trọng dường như chỉ là kết quả của thành công và đạo đức chứ không phải nguyên nhân của chúng, hầu như không có bằng chứng nào cho thấy lòng tự trọng có thể đưa con người đến với thành công, hạnh phúc hay những kết quả đáng mơ ước khác.
Dù cuộc vận động cho lòng tự trọng thất bại, không ai có thể nghi ngờ rằng một số cách ta suy nghĩ về chính mình sẽ đem đến nhiều lợi ích với ta hơn những kiểu suy nghĩ khác. Chúng ta đều biết rằng mọi người tự tạo ra nỗi bất hạnh cho mình đơn giản thông qua cách họ nghĩ và phản ứng đối với những sự kiện trong đời họ. Nhiều người thúc ép chính mình phải đạt được những mục tiêu không thực tế, trừng phạt họ vì sai phạm và lỗi lầm, và thổi phồng những khó khăn của họ ra khỏi giới hạn sự cân bằng. Theo một cách kì lạ, những người này rất tệ với chính mình, đối xử hà khắc với chính mình hơn đối xử với người khác. Dù vậy chúng ta vẫn biết có những người sống nhẹ nhàng và tình cảm với chính mình. Họ không phải lúc nào cũng thấy hạnh phúc với chính mình, nhưng họ chấp nhận thực tế rằng mọi người có những khuyết điểm và những vấn đề, và họ không chỉ trích hay lên án chính mình vì những chuyện nhỏ nhặt trong cuộc sống thường ngày.
Hai cách phản ứng này đối với khuyết điểm, thất bại và những vấn đề có thể giống như phản ánh sự khác biệt của lòng tự trọng, nhưng thực tế sự khác biệt quan trọng nhất không phải là lòng tự trọng mà chính là lòng vị tha đối với chính mình. Nghĩa là
Sự khác biệt không phải nằm quá nhiều ở việc con người tự đánh giá chính mình (lòng tự trọng) mà là cách mà họ đối xử với chính mình (lòng tử tế với chính mình – self-compassion). Và dường như phẩm chất này quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc hơn.
Dĩ nhiên mọi người thích đánh giá chính họ một cách tốt đẹp hơn là tệ hại, nhưng lòng tử tế với chính mình có sức mạnh ảnh hưởng đến cảm xúc và hành vi của con người theo cách mà lòng tự trọng không thể làm được.
Tử tế với chính mình là gì?
Bạn hãy nghĩ tử tế đối với người khác là như thế nào, và thay đối tượng là chính bạn. Giống như lòng vị tha muốn làm vơi đi nỗi đau của người khác, tử tế phản ánh một khao khát được giải phóng khỏi những đau khổ của chính mình, cũng quan trọng như tránh tạo ra những sự bất hạnh và căng thẳng không cần thiết cho chính mình.
Khi đối mặt với thử thách trong cuộc sống, người tử tế với chính mình phản ứng với sự nhiệt tình và quan tâm hơn là tự đánh giá và tự chỉ trích. Dù là những vấn đề phát sinh từ khuyết điểm, sự khờ dại hay thiếu kiềm chế, hoặc chúng xảy ra ngoài sự kiểm soát, những người tử tế với chính mình hiểu rằng khó khăn là một phần của cuộc sống. Vì vậy họ đối mặt với chúng với tâm thái bình thản, chứ không coi thường hay bị cuốn theo những cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực.
Kristin Neff, một nhà tâm lý học phát triển của đại học Texax ở Austin, lần đầu tiên đã đưa khái niệm lòng tự vị tha đến với giới những nhà tâm lý học và thực tập sinh trong năm 2003. Từ đó, những nghiên cứu đã chỉ ra rằng lòng tử tế với chính mình có liên hệ mật thiết với những đặc điểm của hạnh phúc trong tâm lý đã được nghiên cứu. Những người với lòng tự vị tha cao thể hiện sự chín chắn hơn về mặt cảm xúc, họ ít nản lòng hơn, có cái nhìn cởi mở hơn, và hài hòa hơn đối với cuộc sống. Họ cũng ít bị rối loạn tâm lý như trầm cảm và lo âu.
Người có lòng tử tế với chính mìnhcao thường xử lý các vấn đề – như thất bại, sự khinh rẻ và lầm lỡ – tốt hơn so với người có ít lòng tử tế đối với chính mình. Dù là vấn đề nhỏ hằng ngày, hay một sự kiện đáng tiếc hay một vấn đề thường trực, những người tự đối xử với mình bằng lòng tử tế phản ứng một cách thích nghi hơn so với những người không làm vậy. Chỉ cần nhận được một chút tấm lòng của người khác có thể giúp chúng ta đối mặt với gạch đá từ cuộc sống , trở nên tử tế với chính mình cũng có hiệu quả tương tự.
Trong một nghiên cứu, những người biết tử tế với chính mình nói rằng họ luôn cố gắng tử tế với chính mình khi đối mặt với bất kì khó khăn nào, giống như cách mà họ sẽ ứng xử với một người bạn đang gặp những khó khăn tương tự. Tử tế với chính mình có thể đặc biệt hữu ích khi người phải đối mặt với trải nghiệm quan trọng thay đổi cuộc sống. Ví dụ, những người mới chia tay mối quan hệ của họ sẽ ít đau khổ hơn nếu họ có lòng tự bi.
Lão hóa mang lại những thay đổi không mong muốn, nhiều thay đổi trong số đó liên quan đến sai sót hay thất bại, như khi người ta không thể nhớ hoặc gặp khó khăn khi thực hiện công việc hàng ngày. Mặc dù họ sẽ giải quyết vấn đề của một người bạn với lòng tử tế, nhiều người già trở nên cố chấp và giận dữ, chỉ trích chính mình và than thở về việc họ không thể làm những việc khi xưa có thể làm. Những người khác, trong khi đó, dường như coi lão hóa như một sự hiển nhiên, chấp nhận sai sót của họ, và đối xử đặc biệt với chính mình khi họ trải qua những ngày không vui.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng những người có nhiều lòng tử tế với chính mình đối phó tốt với những thách thức của quá trình lão hóa hơn so với những người kém tử tế: họ hạnh phúc hơn, vấn đề cảm xúc ít hơn, hài lòng hơn với cuộc sống, và cảm thấy rằng họ đã “lão hóa thành công hơn” . tử tế là đặc biệt hữu ích cho những người lớn tuổi có sức khỏe thể chất kém. Trong thực tế, khi có lòng tử tế, những người có vấn đề về sức khỏe đã nói rằng mình hạnh phúc và thỏa mãn giống như những người không có vấn đề như vậy.
Tương tự như vậy, chúng tôi phát hiện thấylòng tử tế với chính mình liên quan tới việc giảm căng thẳng, lo lắng và mặc cảm ở những người sống chung với HIV. Bởi vì họ ít tự phê bình và mặc cảm, những người có nhiều tử tế với chính mình cũng có nhiều khả năng chia sẻ tình trạng nhiễm HIV của mình cho người khác. Một thứ gì đó ở lòng tử tế với chính mình dẫn dắt một cá nhân đối mặt với bệnh tật, thay đổi cuộc sống để thích ứng thành công hơn.
Để hiểu được cách tử tế hoạt động, hãy xem xét cách mọi người phản ứng với các sự kiện tiêu cực. Khi chúng ta khó chịu về điều gì đó, thì những phản ứng của chúng ta xuất phát từ ba nguồn khác nhau. Đầu tiên là vấn đề kích động, và phân tích của chúng ta về các mối đe dọa mà nó gây ra cho hạnh phúc của chúng ta – cái mà các nhà tâm lý học gọi là sự đánh giá chính (primary appraisal). Cho dù chúng ta đang đối phó với một sự thất bại, sự từ chối, một vấn đề sức khỏe, mất việc, một vé phạt chạy quá tốc độ hoặc chỉ đơn giản là thất lạc chìa khóa xe, một phần của sự khổ sở của chúng ta là một phản ứng trước những tác động tiêu cực của sự kiện.
Thứ hai, con người phân tích khả năng của họ để đối phó với những hậu quả của vấn đề. Những ai nghĩ rằng họ không thể xử lý các vấn đề về tình cảm sẽ khó chịu hơn so với những người nghĩ rằng họ sẽ vượt qua.
Thứ ba đi kèm trách nhiệm và cảm giác tội lỗi. Khi các vấn đề phát sinh, chúng ta thường nghĩ về vai trò mà chúng ta đã đóng – mức độ mà chúng ta phải chịu trách nhiệm và những gì, nếu bất cứ điều gì, điều này nói về chúng ta. Mọi người thường gánh chịu thêm đau khổ khi họ tin rằng các vấn đề phát sinh thông qua sự yếu đuối, ngu dốt hoặc thiếu tự kiểm soát của họ. Tất nhiên, đánh giá trách nhiệm của một người là đôi khi hữu ích, nhưng người ta thường đi xa hơn một đánh giá khách quan về trách nhiệm của mình để đổ lỗi, chỉ trích và thậm chí trừng phạt chính mình. Sự tàn ác này làm tăng thêm bất cứ điều gì gây căng thẳng cho vấn đề ban đầu đã gây ra.
Đối xử với chính mình một cách tử tế giúp cải thiện cả ba nguồn gốc của đau khổ. Người ta có thể làm giảm một số các cảm giác lo lắng ban đầu bằng cách xoa dịu chính mình, cũng giống như người ta có thể làm dịu khó chịu của người khác thông qua các mối quan tâm và sự tử tế.
Trong The Compassionate Mind (Tâm tử tế)(2009), Paul Gilbert, một nhà tâm lý học người Anh đã khám phá những lợi ích trong điều trị của tử tế, cho thấy lòng tử tế gây nên các phản ứng tâm sinh lý tương tự như nhận được sự chăm sóc của người khác. Đối xử với chính mình một cách tử tế và chu đáo có nhiều tác dụng giống như đang được hỗ trợ bởi những người khác.
Khi người ta không làm tăng thêm đau khổ cho họ thông qua việc tự buộc tội, họ có thể nhìn cuộc sống thanh thản hơn trong mắt và nhìn thấy nó như chính nó là vậy.
Cũng quan trọng không kém, tử tế với chính mình loại bỏ sự đau khổ chồng chất mà mọi người thường chất đống trên chính mình mình thông qua những lời chỉ trích và tự trách mình. Thêm vào đó, tử tế đem lại trí tuệ. Tôi có thể không làm cho người bạn của tôi bị mất công việc của mình cảm thấy tốt hơn, nhưng tôi chắc chắn sẽ không làm cho anh ta cảm thấy tồi tệ hơn bằng cách nói với anh ấy rằng nó là một thất bại. Tuy nhiên, những người ít tử tế với chính mình nói chuyện với mình theo những cách chính xác như vậy.
Một đặc điểm trung tâm của tử tế với chính mình giúp xoa dịu đau khổ mà Neff gọi là nhân tính chung. Người có lòng tử tế với chính mình nhận ra rằng mọi người đều có vấn đề và đau khổ. Hàng triệu người khác đã trải qua sự kiện tương tự, và nhiều người đang đối phó với các vấn đề tương tự ngay lúc này. Mặc dù việc nhận ra những mối quan hệ của một người với trải nghiệm được nhân loại chia sẻ không làm giảm những phản ứng của chúng ta với vấn đề ban đầu, thì nó vãn nhắc chúng ta không để cá nhân hoá những gì đã xảy ra hoặc để kết luận rằng vấn đề của chúng ta là tồi tệ hơn người khác. Xem các vấn đề của một người qua ống kính của nhân tính chung cũng làm giảm cảm giác cô lập. Nó giúp ta nhớ rằng tất cả chúng ta cùng ở với nhau.
Quan trọng hơn, lòng tử tế không chỉ là suy nghĩ tích cực. Trong thực tế, lòng tử tế với chính mình có liên quan tới một thẩm định thực tế hơn về tình hình của một người và trách nhiệm của một người cho nó. Khi người ta không làm tăng thêm đau khổ của họ thông qua việc tự trả đũa và than phiền, họ có thể nhìn cuộc sống tròn hơn trong mắt và nhìn thấy nó như thật. Người tử tế với chính mình có một phản ứng chính xác hơn, cân bằng và không phòng thủ trước sự kiện mà họ trải nghiệm.
Hầu hết các nghiên cứu về tử tế với chính mình đã xem xét mối quan hệ của nó với cảm xúc, nhưng nó cũng có những ngụ ý đối với động cơ và hành vi của con người. Những cảm xúc mạnh có thể phá hoại hành vi hiệu quả do dẫn con người tập trung vào việc làm giảm nỗi khổ của họ hơn là quản lý vấn đề ban đầu. Nếu không được kiểm soát(vì người đó thiếu lòng tử tế với chính mình), thì những phản ứng tiêu cực nuôi dưỡng sự chối bỏ, sự né tránh và khó khăn hoặc sự không sẵn sàng đối mặt với vấn đề, dẫn đến những hành vi đối phó rối loạn chức năng (dysfunctional coping behaviours). Còn người tùe bi với chính mình thì đáp ứng với sự trầm tĩnh hơn, họ ứng phó hiệu quả hơn trước những thách thức mà họ đương đầu.
Ví dụ, trong một nghiên cứu, sinh viên đại học ở tình trạng tồi tệ hơn so với mong muốn về một kỳ thi sau đó thực hiện tốt hơn trên các kì thi tiếp theo nếu họ có tử tế với chính mình. Có lẽ, sinh viên có lòng tử tế với chính mình thấp tự chèn ép chính mình và hành động thái quá, dẫn đến họ lảng tránh vấn đề. Sinh viên giàu lòng tử tế với chính mình khảo sát tình hình và vai trò của họ trong đó, và đã có những bước cải thiện trong tương lai. Tương tự như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi với người sống chung với HIV, những người tham gia có lòng tử tế với chính mình thấpchỉ ra nỗi xấu hổ về việc bị HIV dương tính ngăn họ để tìm kiếm sự chăm sóc y tế và tâm lý, trong khi những người tử tế với chính mình đã chăm sóc mình tốthơn. tử tế với chính mình gắn liền với sự điều chỉnh tâm lý tốt hơn và hành vi thích nghi hơn.
Một số người chống lại ý tưởng rằng họ nên tử tế với chính mình nhiều hơn. Nhiều người cho rằng tử tế với chính mìnhphản ánh suy nghĩ Pollyanna-ish, phủ nhận thực tế, hay tệ hơn, sự dễ dãi. Theo quan điểm này, tự lòng tử tế có nghĩa là bỏ qua các vấn đề của một người, trốn tránh trách nhiệm, có tiêu chuẩn thấp, và sẽ dễ dàng vào chính mình. Những người tin rằng khó khăn với chính mình thúc đẩy công việc, hành vi phù hợp và thành công, lo lắng rằng tử tế với chính mình sẽ làm giảm năng suất của họ.
Những lo ngại này phản ánh sự thiếu hiểu biết về tử tế với chính mình. Nó không phải là sự thờ ơ với những gì xảy ra hoặc làm thế nào một người cư xử. Cũng không phải là một cái nhìn mù quáng tích cực hay một cái cớ để được lười biếng, trốn tránh trách nhiệm. Thay vào đó, lòng tử tế với chính mình được dựa trên mong muốn điều tốt nhất cho chính mình. Giống như lòng tử tế đối với người khác phát sinh từ mối quan tâm cho hạnh phúc của họ và mong muốn giảm bớt đau khổ của họ, lòng tử tế với chính mình bao gồm việc mong muốn điều tốt nhất cho chính mình và phản ứng theo những cách thúc đẩy phúc hạnh phúc của một người. Người tử tế với chính mình muốn giảm bớt các vấn đề hiện tại của họ, nhưng họ cũng muốn ứng xử theo cách đó để nâng cao chất lượng cuộc sống của họ, vì vậy nếu lười nhác và thiếu động lực thì không thể thực hiện điều này. Người tử tế với chính mình nhận ra chính mình khi họ lỡ cư xử tồi tệ, những quyết định thiếu sáng suôt hay thất bại, và đôi khi không hài lòng với chính mình hoặc với sự kiện xảy ra. Nhưng, nghịch lý thay, chấp nhận và tử tế với mình vào những thời điểm như vậy có thể giúp duy trì động lực và cải thiện năng suất.
Trong một nghiên cứu, yêu cầu mọi người suy nghĩ về một hành vi tiêu cực một cách tử tế, dẫn người tham gia có trách nhiệm cá nhân hơn cho hành vi đó. Xem các vấn đề của một người với một góc độ nhẹ nhàng, thoải mái giúp cho mọi người đối đầu trực tiếp với những khó khăn của họ mà không cố giảm thiểu chúng. Họ biết rằng một khoảng nhất định của sự tự đánh giá là cần thiết để duy trì hành vi mong muốn, nhưng họ không đi quá mức cần thiết. Những người tìm kiếm những gì tốt nhất cho chính họ nhận ra rằng họ không cần phải trừng phạt chính mình để biết rằng hành vi tốt và công việc khó khăn là rất quan trọng.
Cách để tử tế với chính mình
Hãy bắt đầu nhận ra những lúc bạn không đối xử tốt đẹp gì cho chính mình.
- Bạn đang nói với mình những điều khắc nghiệt và tàn nhẫn trong tâm trí của bạn?
- Bạn có trừng phạt mình bằng cách thúc ép mình hoặc lấy đi niềm vui của mình khi mọi thứ không như ý?
- Bạn sẽ đối xử với một người thân yêu theo cách này trong những tình huống tương tự?
Một người tử tế với chính mình nhận diện được các vấn đề, khắc phục nó nếu có thể, và lướt qua mà không tạo ra thứ gì kịch tính cả.
Nếu bạn thấy mình đối xử tệ với mình và làm tăng đau khổ của bạn, hãy tự hỏi tại sao. Có phải vì bạn nghĩ rằng khó khăn với chính mình góp phần thúc đẩy bạn, làm cho bạn hành xử một cách thích hợp, hoặc làm tăng cơ hội thành công? Ở một mức độ nào đó, bạn có thể đúng: suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực giúp chúng ta quản lý hành vi của mình. Câu hỏi đặt ra là bạn nên cảm thấy xấu đến mức nào để thúc đẩy chính mình. Những người ít tử tế với chính mình thường làm cho mình cảm thấy tồi tệ hơn cần thiết để tiếp tục công việc. Một chút tự phê bình có thể giúp bạn đi một chặng đường dài.
Nhắc nhở chính mình rằng tất cả mọi người đều có lúc thất bại, bị đối xử tệ bạc, bị từ chối, trải qua mất mát, bị làm nhục, và trải qua vô số sự kiện tiêu cực. Việc đó không có nghĩa là những sự kiện này là tốt, mà nó có nghĩa là chẳng có điều gì là bất thường hoặc mang tính cá nhân trong những chuyện đã xảy ra. Một người tử tế với chính mình nhận diện được các vấn đề, sửa chữa nó nếu có thể, và đi tiếp mà không tạo ra những trò bi kịch quá lố.
Cuối cùng, học hỏi để trau dồi lòng tử tế với chính mình. Đối xử tử tế với chính mình, cả trong tâm trí của bạn và cách bạn cư xử với chính mình. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy rằng họ thường tốt với những người khác hơn chính mình mình.
May mắn thay, mọi người có thể phản ứng một cách tử tế với chính mình bất kể họ cảm thấy chính mình mình thế nào vào thời điểm đó. Không giống như lòng tự trọng, dựa vào điểm mạnh cá nhân, lòng tử tế của một người không phụ thuộc vào cách nhìn mình tích cực hoặc thích chính mình. Trong thực tế, lòng tử tế thường có lợi nhất khi những sự kiện xảy ra làm một người lộ rõ khuyết điểm, sự đòi hỏi, kiểm soát hoặc giá trị.
Đối xử với mình một cách tốt đẹp thì dễ dàng hơn nhiều so với cố đánh giá chính mình một cách tích cực.
Tử tế với chính mình không là cách trị bách bệnh cho các vấn đề của cuộc sống, nhưng đó sẽ là liều thuốc giải cho sự nhẫn tâm đôi khi chúng ta gây ra cho chính mình. Hầu hết chúng ta muốn trở thành người tử tế, vậy sao không thể là tốt đẹp cho chính ta như ta làm cho người khác?
Nguồn: Aeon