Một chế độ sinh hoạt
Bái chia sẻ số Một trên
đây đã cho chúng ta thấy : vào những ngày tháng đầu tiên, sau khi
một đứa bé ra đời, Tự Ngã và Vô Thức trùng hợp và ăn khớp với nhau.
Nhờ sự can thiệp của người mẹ và những người lớn khác trong gia
đình, với tư cách là Siêu Ngả, Bản Ngã của đứa bé bắt đầu từ từ xuất
hiện. Tuy nhiên, khi trở nên Bản Ngã, chưa hẳn đứa bé đã ý thức một
cách trọn vẹn về tất cả những hiện tượng đang xảy ra trong nội tâm
của mình, thậm chí sau khi biết nói và có khả năng tư duy. Thêm vào
đó, chính người mẹ khi đóng vai trò làm Siêu Ngã cho đứa con, chưa
hẳn bà đã ý thức một cách rõ rệt và sáng suốt về tất cả những gì bà
đang làm, đang nói và đang cảm, khi tiếp xúc và trao đổi với đứa
con. Trong tinh thần và ý nghĩa ấy, Vô Thức hay là Vô Minh có nghĩa
là « Không Biết, Ngu Muội, U Tối, hay là Đui Mù trên bình diện tâm
linh ».
Một đàng, Vô Thức có mặt
trong tất cả ba cấu trúc Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Đàng khác, Vô
Thức luôn luôn len lỏi nằm vùng và tác động trong suốt cuộc sống làm
người của mỗi cá nhân, ở giữa lòng xã hội. Cho nên, theo ý kiến của
một số đồ đệ của Freud, nội tâm có hai cơ cấu tổ chức khác nhau :
Một bên là cơ cấu bao gồm Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Cơ cấu thứ
hai là chiến trường xung đột giữa hai thành tố : Vô thức và Ý Thức.
Theo lối nhìn của tôi,
khi nói đến Vô Thức và Ý Thức, Freud không đề xuất thêm một cơ cấu
tổ chức thứ hai của Nội tâm. Đó chỉ là hai chế độ sinh hoạt, hay
đúng hơn, hai mức độ thức tỉnh, hai mức độ sáng suốt, hai mức độ
hiểu biết, hai CHẤT LƯỢNG làm người. Cho nên, để trở nên Bản Ngã,
chúng ta phải thường xuyên phát huy khả năng chuyển biến Vô Thức
thành Ý Thức. Đành rằng, đó là một tiến trình không bao giờ kết
thúc, chấm dứt và hoàn thành, bao lâu chúng ta còn mang thân phận
làm người.
***
Sào huyệt thứ nhất của
Vô Thức : ngôn ngữ được chúng ta sử dụng hằng ngày
Khi người mẹ báo cáo với
bác sĩ : « Đứa con của tôi rất khó tính. Nó khóc la và quấy rầy tôi
suốt ngày. Tôi không làm được gì cả với bé », Vô thức của bà đã có
mặt trong tất cả ba mệnh đề đơn sơ và vắn gọn ấy. Bà tưởng rằng :
mỗi điều bà trình bày cho bác sĩ khám bệnh đều là những tin tức rõ
ràng và chính xác.
Thực ra, nếu bác sĩ có
những kiến thức chuyên môn về Phân Tâm Học, với những câu hỏi, ông
sẽ có khả năng gọi Vô Thức của bà mẹ và đem Vô Thức ấy ra vùng ánh
sáng của Ý Thức.
– Câu hỏi thứ nhất : « Bà
vừa trình bày cho tôi nghe : đứa con của bà rất khó tính, có phải
vậy không ? Bà làm ơn nói thêm cho tôi biết rõ hơn : cháu khó tính
bằng cách nào, cháu làm gì cụ thể ? ». Ở dưới những lời khẳng định
của bà mẹ, bác sĩ đã đào bới, yêu cầu bà tìm ra những tin tức cụ
thể, những sự kiện khách quan. Trên đó, bà đã thiết lập những giả
thuyết và rút ra những kết luận.
– Câu hỏi thứ hai : «
Như bà vừa nói ra, đứa con của bà khóc la và quấy rầy bà suốt ngày.
Suốt ngày có phải là suốt 24 tiếng đồng hồ, không bao giờ dừng
lại ? ». Với câu hỏi nầy, bác sĩ đã gọi ra ánh sáng của Ý Thức, một
cơ chế tâm lý mang tên là xu thế phóng đại, cường điệu. Theo lối nói
bình dân, đó là khuynh hướng « có bé xé ra to », hay là « vơ đũa cả
nắm ».
– Câu hỏi thứ ba : « Như
bà đã trình bày, bà không làm được gì cả với đứa con của bà. Nhưng
thực ra bà muốn làm gì với cháu, mà bà không làm được ? ». Câu hỏi
nầy nhằm giúp bà mẹ định nghĩa một cách chính xác, những động từ mà
bà thường dùng. Hẳn thực, khi bà mẹ có một mục tiêu rõ rệt, ngang
tầm phát triển của đứa con, bà sẽ có khả năng thực hiện và thành tựu
mục tiêu ấy.
Một vài ví dụ đơn sơ và
dễ hiểu như vậy cho chúng ta thấy được một phần nào : Vô Thức không
phải là một « bí mật cao siêu, mầu nhiệm ». Trái lại, Vô Thức có mặt
ở trước và bao quanh chúng ta. Nhưng chúng ta không thấy, không
nghe, không cảm, vì Vô Thức đã trở thành tập quán, xương da, máu
thịt của chúng ta.
Nhằm đánh thức và giúp
chúng ta sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác, trong những quan hệ
trao đổi hằng ngày, tác giả A. ROBBINS kêu mời mỗi người hãy nhìn
năm ngón tay của mình, đặt ra những câu hỏi, trước khi trình bày,
phát biểu một ý kiến (5).
Kỹ thuật năm ngón
tay trái
– Một, ngón tay út phía
bên trái, nhìn từ phía lưng, trước khi chúng ta sắp sử dụng những từ
như : luôn luôn, không bao giờ, tất cả, mỗi…chúng ta đặt ra cho
mình câu hỏi : Luôn luôn không có ngoại lệ à? Tất cả không thiếu một
ai cả sao?
– Hai, ngón tay đeo nhẫn.
Các từ : phải, cần, không được, không nên, không thể. Câu hỏi : Ai
đã đưa ra mệnh lệnh và qui luật ấy ? Cái gì bắt buộc ? Điều gì cản
trở như vậy ? Người nào cấm đoán ?
– Ba, ngón tay giữa. Các
động từ hành động như làm, thương yêu, hợp tác, đóng góp, thực
hiện…Cách đặt câu hỏi : Hợp tác…bằng những cách làm cụ thể và
khách quan nào ?
–
Bốn, ngón tay trỏ.
Các danh từ tổng quát và trừu tượng như : người Việt Nam, hòa bình,
tự do, hạnh phúc. Cách đặt câu hỏi : Người Việt Nam cụ thể là ai,
tên gì, ở đâu ? Những động tác cụ thể, để thể hiện Hòa bình là gì ?
Những yếu tố cụ thể cần thành đạt, để có được Tự do là những gì ?
– Năm, ngón tay cái.
Những cách nói về số lượng hay là so sánh, như quá ít, quá nhiều,
tốt hơn, quá xấu…Cách đặt câu hỏi : So sánh với ai, cái gì để
quyết đoán như vậy ? Hơn là hơn ai ? Thua là thua về phương diện
nào ? Dựa vào những chuẩn mực nào để so sánh như vậy ?
Sào huyệt thứ hai của
Vô Thức : Đúng-Sai, Có lý-Vô lý, Tốt-Xấu
Khi khẳng định về ba cách
đánh giá vừa được nêu ra, chúng ta đã ở vào giai đọan thứ ba của một
tiến trình tư duy. Đành rằng người nghe chúng ta, sẽ không thể nào
hay biết gì về hai giai đoạn thứ nhất và thứ hai. Nhưng chính người
phát biểu – là chúng ta – có ý thức đến hai giai đoạn kia hay
không ? Bao nhiêu ngộ nhận, hiểu lầm và xung đột giữa chúng ta với
người khác, đều bắt nguồn từ « những con đường tắt », hay là « những
bước nhảy vọt » ấy.
Trở lại với tiến trình
của Tư Duy – còn được gọi là những nấc thang của Suy Tư và Lý Luận –
chúng ta cần phân biệt ba giai đoạn thiết yếu :
– Giai đoạn một : Lắng
nghe, ghi nhận và tiếp thu những tin tức khách quan và cụ thể, do
môi trường sinh hoạt cung ứng. Tôi thấy gì, tôi nghe gì, với đôi mắt
và hai lỗ tai của tôi, chứ không phải do dư luận đồn thổi ?
– Giai đoạn hai : Từ
những dữ kiện ấy, tôi đề xuất giả thuyết nào ? Tôi « thuyên giải làm
sao », nghĩa là quyết định và chọn lựa ý nghĩa nào, giữa bao nhiêu
con đường xuôi ngược khác nhau ?
– Giai đoạn ba : sau khi
rà soát lại những tin tức và trắc nghiệm, kiểm chứng lại giả thuyết,
tôi rút ra kết luận như thế nào ? Và với kết luận ấy, tôi nói gì,
làm gì, cảm gì với con người xương thịt, cụ thể đang ở trước mặt
tôi ?
Mặc dù với ba bước đi
lên, được thực hiện và cân nhắc, một cách có hệ thống và khoa học,
tôi vẫn còn phải thú nhận, với tất cả lòng thành tâm và khiêm tốn,
rằng : kết luận cuối cùng của tôi chỉ là một lối nhìn CHỦ QUAN của
tôi mà thôi. Một người khác, trong vai trò và vị trí hiện tại, cũng
như với những điều kiện giáo dục và kinh nghiệm về cuộc sống… có
thể có những tin tức hoàn toàn khác biệt. Từ đó, người ấy sẽ có một
lối thuyên giải khác. Và kết luận cuối cùng của người ấy sẽ phản ảnh
lợi ích riêng tư và quá trình học vấn của người ấy.
Dựa vào đâu, tôi khẳng
định rằng : Tôi đúng, tôi có lý, tôi có toàn quyền về sự thật ? Phải
chăng chỉ vì tôi đang ở dưới một « chế độ Vô Thức » ?
Để cùng nhau và giúp nhau
dấn bước vào con đường Ý Thức, mỗi người trong chúng ta hãy nhìn
nhận và đón nhận ba loại câu chuyện khác nhau :
– Câu chuyện « Ngôi Thứ
Nhất » của tôi,
– Câu chuyện « Ngôi Thứ
Hai » của người khác, đang nói chuyện và tiếp xúc với tôi,
– Câu chuyện « Ngôi Thứ
Ba » của một bà mẹ đang « cưu mang cả hai chúng ta, trong cùng một
bọc trứng », hay là của một người cha « có một con tim và bộ óc bao
la như Đại Dương », đón nhận mọi dòng sông và con nước, từ bốn
phương chảy về. Họa may, lúc bấy giờ, chân lý sẽ mượn con đường tình
thương, đề mặc khải mình.
Thái độ duy nhất của
những người đang nói chuyện với nhau là « cùng với nhau », AND
stance. Trong tiếng Anh khoa học ngày nay, có những từ rất nhỏ, rất
tầm thường, rất quen thuộc, ở đầu môi lưỡi của mọi người, thậm chí
nơi một trẻ em vừa mới bập bẹ học nói. Nhưng giá trị của nó rất lớn
lao, kỳ vĩ, về mặt làm người. AND có nghĩa là VÀ. Tôi chuyển dịch là
« cùng với ». Trên con đường Ý Thức, cùng với bạn, tôi học lại một
lối nhìn. Cùng với bạn, tôi nghe lại với vành tai xôn xao. Cùng với
bạn, tim tôi phập phòng, trăn trở, thổn thức và đập nhịp, để nuôi
sống mọi tế bào trong cơ thể. Để làm mới lại những quan hệ nối kết
chúng ta, trong cùng một Trời Biển, trong cùng một Nước Non. Không
có bạn, tôi mất đi một nửa con đường Ý Thức của tôi. Cho nên tôi lại
phải đắm chìm trong bóng đêm mịt mù của Vô Thức triền miên.
Sào huyệt thứ ba của
VÔ THỨC : Ý Định của bạn và của tôi
Mặc dù không có dịp được
trang bị về Phân Tâm Học, thi sĩ Xuân Diệu đã có những lối nhìn xuất
sắc về Vô Thức (6) :
« Ai đem phân chất
một mùi hương,
« Hay bản cầm ca, tôi
chỉ thương,
« Chỉ lặng chuồi theo
dòng cảm xúc,
« Như thuyền ngư phủ
lạc trong sương.
« Làm sao cắt nghĩa
được Tình Yêu ?
« Có nghĩa gì đâu một
buổi chiều,
« Nó chiếm hồn ta bằng
nắng nhạt,
« Bằng mây nhè nhẹ,
gió hiu hiu … »
Hẳn thực, phải chăng
trước khi yêu ai, tôi đã biết ngồi lại, cân nhắc, đánh giá một cách
bình tĩnh và sáng suốt, để rồi sau đó tôi có thể một lần dứt khoát
chọn lựa và quyết định, mà không sợ mình đã sai lầm ?
Theo lối nhìn của Tâm lý
đương đại, trong địa hạt tình yêu, cũng như trong bao nhiêu sinh
hoạt khác, không bao giờ chúng ta có khả năng quyết dịnh , một cách
dứt khoát, trong chỉ một lần. Trái lại, để cho tình yêu đâm chồi,
nảy lộc, nở hoa và kết trái, ngày ngày chúng ta phải chọn lựa lại,
quyết định lại. Từ xưa, tổ tiên và cha ông chúng ta đã nhắn nhủ :
Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân. Mỗi ngày, đổi mới. Mỗi ngày,
đổi mới lại. Càng ngày càng đổi mới. Bằng không, chúng ta chỉ là
« hồn ma phiêu bạt », sống cũng không ra sống. Chết cũng không chết
hẳn. Cho nên, chúng ta chỉ là gánh nặng, cho nhiều người cùng chung
sống.
Khi nói về ý định -của
bạn, của tôi hay là của một ai khác- chúng ta cũng cần có một lối
nhìn sáng suốt và thức tỉnh như vậy :
– Thứ nhất, ý định phát
xuất từ nhiều tầng sâu của nội tâm. Trong đó, vừa có lối nhìn của tư
duy soi sáng hướng dẫn, vừa có những xúc động đang động viên và thúc
đẩy tôi.
– Thứ hai, duy chỉ tôi
mới có thể biết ý định của tôi. Tuy nhiên, cái biết ấy rất hạn chế.
Còn bao nhiêu yếu tố khác đang thoát ra ngoài vòng ý thức của tôi.
– Thứ ba, những ai khác,
ngoài tôi ra, không thể nào biết ý định của tôi, ngoại trừ sau khi
tôi bộc lộ mình cho người ấy. Trường hợp họ đinh ninh rằng họ biết,
là vì họ đang bói đoán hay là dự tưởng mà thôi. Đó không phải là
cái biết phát xuất từ suy luận, bởi vì họ không thể nào có những dữ
kiện khách quan, để xây dựng tiến trình tư duy của họ.
Không có những kiến thức
cơ bản và rõ ràng về ý định như vậy, chúng ta dễ áp đặt cho kẻ khác,
những ý định không có mặt trong nội tâm của người ấy. Chúng ta chỉ
« phóng ngoại » những gì đang nung nấu, trong cõi lòng của chúng ta
mà thôi. Khi phóng ngoại như vậy, tôi đang chiếu lên khuôn mặt của
kẻ khác, một cuốn phim xoay vần trong nội tâm của tôi.
Ngược lại, khi kẻ khác áp
đặt cho tôi một ý định, điều quan trọng, khả dĩ tạo nên những quan
hệ xung đột, hận thù giữa tôi và người ấy, không phải chỉ là ý định
mà thôi. Nhưng là vết thương lòng lở lói, do thái độ của người ấy
tạo nên, trong lảnh vực xúc động và tình cảm của tôi. Chính vì lý do
đó, mặc dù người ấy đã rút lại lời nói của họ hay là cải chính tin
tức đã đưa ra, vết thương lòng của tôi vẫn cứ rướm máu, nhức nhối.
Hận thù vẫn tiếp tục. Xung đột vẫn kéo dài.
Để thoa dịu và hàn gắn
vết thương trong tâm hồn của một người, như tôi sẽ nói tới, trong
những đoạn sau này, là NHÌN NHẬN và ĐÓN NHẬN vết thương xúc động của
người ấy. Chỉ biết chừng đó, chúng ta đã bắt đầu có khả năng nâng
cao chất lượng làm người, trong bản thân của chúng ta và trong đời
sống của nhiều người khác.
Thêm vào đó, chúng ta nên
nhớ rằng : vết thương vừa có mặt, không những trong người bị áp đặt
một ý định. Vết thương lòng cũng có mặt trong người áp đặt ý định
cho người khác, một cách hồ đồ. Sở dĩ họ làm như vậy, là vì họ đang
bị Vô Thức khống chế. Họ đang lo sợ. Họ đang khổ đau. Họ cảm thấy
mình không được yêu thương và chú trọng, đúng như lòng mong đợi. Cho
nên, khi chúng ta bị áp đặt từ ngoài một ý định không có căn cứ,
thay vì chối từ, đính chính với một thái độ tự vệ hay là biện minh,
chúng ta bắt đầu hướng đến niềm đau của người ấy :
« Bạn vừa nói rằng tôi
có ý định phá hoại dự án mà bạn đã tốn rất nhiều công phu, để suy
nghĩ và xây dựng. Như vậy là bạn đang khổ đau rất nhiều, vì cảm thấy
mình không những không được nâng đở, mà còn bị bạn bè cản trở. Bạn
có thể chia sẻ thêm cho tôi hiểu : bạn đang khổ tâm đến độ nào. Sau
đó, tôi xin trình bày cặn kẻ ý kiến và thái độ của tôi, đối với
bạn… ».
Hẳn thực, khi một người
đang đau khổ, vì bất cứ lý do gì, chất lượng làm người gọi mời chúng
ta hãy tìm cách băng bó vết thương lòng còn lở lói của người ấy,
trước khi phân trần hoặc giải thích thái độ và tác phong chân thực
của mình.
Sào huyệt thứ bốn của
Vô Thức : vấn đề ĐỒNG TRÁCH NHIỆM của mỗi người
Trên một chuyến tàu làm
người, mọi người cùng có mặt với nhau. Họ mang nhiều tên tuổi khác
nhau như : Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mỵ Nương hay là Vua Hùng Thứ Mười
Tám, và bao nhiêu người khác…Nhưng tất cả đều liên đới với nhau.
Như trên đây tôi đã trình bày cặn kẻ, mỗi người -bất kỳ họ là ai,
lớn nhỏ, nam nữ, già trẻ…- đều đóng ba vai trò cùng một lúc :
– Thứ nhất là vai trò làm
cha mẹ có trách nhiệm truyền thừa cho người đến sau một gia tài
phong phú.
– Thứ hai là vai trò làm
người đồng hành và chia sẻ, họp nhau lại thành « một trăm con mắt »
để thấy, « một trăm cánh tay » để làm.
– Thứ ba là vai trò làm một
đứa con hạnh phúc, « nuôi lại Tổ Tiên và Cha Mẹ của mình ». Những điều
mà quí vị đả bắt đầu, hôm nay tôi tiếp nối. Những điều mà quí vị đã
thành đạt, hôm nay tôi mở rộng chân trời. Những điều mà quí vị đã thất
bại, hôm nay tôi « rút kinh nghiệm », sáng tạo thêm những con đường
cao cả và bao la, thay thế vào những con đường lầy lội.
Thay vì bước tới và đi
lên cùng với nhau như vậy, chúng ta đã và đang lặp đi lặp lại những
con đường mòn xung đột và tranh chấp giữa hai nhân vật « Sơn Tinh và
Thủy Tinh ». Tại sao chỉ hai người ấy mới « có tiếng nói », trong
vòng bốn nghìn năm văn hiến ? Tại sao duy hai người ấy mới có độc
quyền « chỉ đạo » con tim và bộ óc của chín mươi tám anh chị em
khác ?
Khi chúng ta tố cáo, kết
tội, phê phán… chúng ta đưa tay chỉ phe bên kia và qui chiếu về
phía họ mọi trách nhiệm. Còn chúng ta, chúng ta từ khước trách nhiệm.
Chúng ta khoác cho mình vai trò « làm nạn nhân » hay là « ăn cơm nguội,
nằm nhà ngoài », và rình rập chĩa súng bắn lén sau lưng họ.
Khi chúng ta lưu tâm đến
công việc lên án, kết tội…chúng ta chỉ biết NHÌN QUÁ KHỨ, nhìn LẦM
LỖI. Và chúng ta quên rằng : cuộc sống làm bằng hiện tại và tương
lai, Yêu Thương và Hiểu Biết, Thứ Tha và Bao Dung.
Trái lại, khi chúng ta biết
cùng nhau ngồi lại, rút ra những bài học, chắt lọc những kinh nghiệm,
lỗi lầm lúc bấy giờ sẽ trở thành một bàn đạp, một điểm tựa quí hóa,
để chúng ta có khả năng dời núi, lấp sông, xây lại những chiếc cầu
« đồng cảm ».
Thêm vào đó, mấy ai trong
chúng ta đang sống trong ánh sáng của Ý Thức, để can đảm và sáng
suốt chấp nhận rằng : Khi có một lỗi lầm xảy ra bất kỳ ở nơi đâu, do
bất kỳ ai khởi xướng, chính tôi đã GÓP PHẦN mình trong đó, không
nhiều thì ít. Sở dĩ như vậy, một đàng vì trong bao nhiêu năm, tôi đã
THINH LẶNG ĐỒNG LÕA. Đàng khác, vì tôi đã la lối ỏm tỏi, chống đối
rùm beng bằng mồm miệng. Đang khi đó, tôi không bao giờ tra tay vào
một việc làm cụ thể và hữu hiệu.
Càng chống đối bằng ngôn
từ thuần đơn, tôi chỉ quảng cáo và tạo thêm cơ hội thuận lợi, để cho
lỗi lầm càng ngày càng lan tràn và phát triển, như vết dầu loang.
Nhằm chuyển hóa một vấn đề
hay là một lỗi lầm, Phân Tâm Học đề nghị cho chúng ta những đường hướng
hành động thiết thực sau đây :
– Thứ nhất, ý thức và gây
ý thức về tiến trình phát sinh của vấn đề, khi vấn đề đang còn ở
trong giai đoạn trứng nước. Trái lại, kêu gào giải quyết vấn đề, tổ
chức những cuộc đấu tranh bằng mồm miệng, khi vấn đề đã lên tới giai
đoạn cực thịnh, chúng ta chỉ làm công việc chữa bệnh dịch hạch, bằng
cách « thoa dầu cù là » ngoài lớp da mà thôi.
– Thứ hai, ở bên dưới mổi
vấn đề to hay nhỏ, luôn luôn có một niềm đau, một vết thuơng lòng rướm
máu, một nỗi lo sợ sâu xa chưa được ai băng bó. Nếu chúng ta muốn đi
nhanh, dùng bạo động, chiến tranh, hận thù để giải quyết, có lẽ
chúng ta dập tắt được một ngọn lửa. Nhưng đám cháy sẽ lan tràn, tiêu
hủy cả một rừng già, một giang sơn gấm vóc.
– Thứ ba, trong cuộc sống
làm người, để giải quyết bất kỳ một vấn đề gì, chúng ta không thể
không ngồi lại với chính những người trong cuộc, thậm chí đó là một
trẻ em. Ngồi lại, lắng nghe, tôn trọng quyền phát biểu của người ấy.
Quyền ấy cũng là quyền làm người.
– Sau hết, truớc khi đi
vào nội dung cụ thể của vấn đề tranh chấp, xung đột, hãy nhìn nhận
và đón nhận vô điều kiện những xúc động của người đối diện, như lo sợ,
tức giận, cảm nghiệm bị đàn áp, bốc lột…Đó là những vết thương
lòng rướm máu đang khống chế và làm băng hoại chất lượng làm người của
họ. Hãy mang lại cho họ chất lượng làm người, tràn đầy và thấm nhuần
trong tấm lòng của chúng ta, họ sẽ dần dần trở nên người anh chị em
thực sự và thân thương.
Bốn cách làm ấy đã có mặt
trong tác phong « làm Bản Ngã trợ tá » của một bà mẹ, xuyên qua mỗi
quan hệ tiếp xúc và trao đổi với đứa con, vừa đi ra khỏi cung lòng
ấm cúng của mình. Cuống rốn nối kết hai mẹ con đã được cắt lìa.
Nhưng một cuống rốn vô hình khác làm bằng Tình Thương, Hiểu Biết và
Tinh Thần Trách Nhiệm đang được sáng tạo và thành hình mỗi ngày. Nhờ
vào đó, đứa con có gan mạo hiểm đi vào lòng cuộc đời, để trở thành
người.
Sào huyệt thứ năm của
VÔ THỨC : Đời sống Xúc Động
Gần như trong tất cả mọi
cuốn sách được tôi viết ra từ trước cho tới nay, luôn luôn tôi đã
dành ra ít nhất một chương, để trình bày những khám phá và nghiên
cứu của tôi, về đời sống xúc động. Vừa hoàn tất một tác phẩm, tôi đã
nhận thấy ngay lập tức nhiều trọng điểm chưa được « tát cạn ». Bao
nhiêu tin tức còn nóng hổi, vừa xuất hiện trên các diễn đàn văn
hóa…Hẳn thực, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Phân Tâm Học đã
ấn mạnh vai trò của xúc động trong toàn diện cuộc sống của con
người. Tuy nhiên, trong vòng 20 năm gần đây, bao nhiêu phương pháp
tiếp cận, thuộc nhiều lảnh vực khác nhau, đã ra đời, như khoa học về
não bộ, phương pháp « Tạo Trung Gian » trong khoa học xã hội, Thuyết
Cấu Trúc trong địa hạt Triết lý…đã cung ứng nhiều nguồn ánh sáng
rất thiết thực và độc đáo. Cho nên, tôi không thể không mang đến cho
giới trẻ, nhất là ở Quê Nhà, một vài tin tức về hướng đi của Nhân
Loại, trong thời đại Nghìn Năm Thứ ba.
Hôm nay, khi nói đến
những xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, làm sao tôi không nhấn
mạnh lại, và nhắc nhở cho đàn em của tôi, rằng : Xúc động là sào
huyệt lớn lao nhất của VÔ THỨC. Nhu cầu của con người nằm ở đó.
Nhưng đồng thời, động cơ thúc đẩy chúng ta đứng dậy, bước tới, tìm
đến với những giá trị lớn lao và cơ bản, trong cuộc sống làm người,
cũng bắt nguồn từ đó. Nếu Sơn Tinh và Thủy Tinh biết ngồi lại với
nhau từ buổi đầu, chia sẻ cho nhau về những xúc động của mình, nhìn
nhận và đón nhận nhau, họ đã mở ra cho các thế hệ về sau, những chân
trời, những kinh nghiệm, những bài học làm người quí hóa.
Bài học thứ nhất cần
được chúng ta ghi nhận là vấn đề ý thức và diễn tả những xúc động
vừa đang hiện hình trong nội tâm
Nếu không được mang ra
ánh sáng của ý thức, chúng nó sẽ tìm cách NGỤY TRANG, để trốn thoát
ra ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau.
– Chiếc áo ngụy trang thứ
nhất là Tư Tưởng Nhị Nguyên trong những lời tố cáo, phê phán, qui lỗi :
Tao hơn mày thua.
– Chiếc áo ngụy trang thứ
hai là xu thế ước đoán hay là khoác cho kẻ khác những ý định tiêu cực
như phá hoại, gian lận, phản bội… : Mày cố ý khinh thường tao.
– Chiếc áo ngụy trang thứ
ba là tập quán chụp mũ, gắn nhãn hiệu, bằng những danh hiệu rất mơ hồ
và tổng quát : Mày là đồ cù lần.
– Chiếc áo ngụy trang thứ
bốn là bộ mặt mô phạm, dạy đời : đưa ra những lời khuyên, đề nghị
cho kẻ khác những cách giải quyết, theo ý chủ quan của mình, hay là
trấn an một cách thông lệ : Thôi, can đảm lên chứ. Con trai mà khóc,
người ta sẽ cười chết.
Bài học thứ hai cần
ghi nhận là phương thức đối ứng với những xúc động nơi người khác
Khi nhận thấy có người
đang bộc lộ dưới nhiều hình thức khác nhau, những xúc động của mình,
điều chúng ta cần làm trước tiên là nhìn nhận và đón nhận, có nghĩa
là coi trọng những cảm nghiệm của họ. Coi trọng như vậy không có
nghĩa là đồng ý với cách phản ứng của họ. Nhìn nhận như vậy là « gọi
tên » xúc động đang thành hình, xuất hiện hay là còn ẩn lén trong nội
tâm của người đang tiếp xúc với chúng ta :
« Qua lời bạn vừa nói
ra… qua hành vi của bạn mà tôi ghi nhận… hình như bạn đang bực tức
và lo buồn… ».
Chúng ta có thể nêu lên
hai hay ba tên gọi khác nhau. Thông thường, những xúc động không bao
giờ xuất hiện một mình. Hai hay ba phản ứng có thể dính liền và cùng
đi với nhau. Theo tác giả G. JAMPOLSKY (7), lo sợ luôn luôn có mặt,
mỗi lần chúng ta tố cáo, chụp mũ hay là có tác phong mất bình tĩnh,
khi bộc lộ một xúc động đang trấn áp nội tâm. Và trước nỗi niềm lo
sợ của một người, chỉ có tình yêu thương là câu trả lời thích hợp và
đứng đắn. Thái độ « Nhìn nhận » phát xuất từ lòng yêu thương chân
thành ấy.
Nói tóm lại, nhìn nhận
xúc động của một người, là khẳng định với người ấy, một cách rõ ràng
và chân thực, ba thái độ làm người của chúng ta :
–
Thứ nhất, tôi đang lắng nghe bạn, với trọn con người của tôi,
–
Thứ hai, tôi muốn tìm hiểu bạn, đúng như bạn hiểu chính mình,
–
Thứ ba, tôi tôn trọng và ghi nhận xúc động đang hiện hình
trong bạn.
Khi người khác không được
chúng ta nhìn nhận, một cách nghiêm minh và cẩn trọng như vậy, những
quan hệ giữa họ và chúng ta sẽ từ từ suy vong và tàn lụi. Trong
những trường hợp trầm trọng hơn nữa, bao nhiêu nguyên nhân gây ra
xung đột, hận thù, chia rẽ đều len lỏi, nằm vùng ở đó.
Bài học thứ ba cần ghi
nhận : Thương lượng, để diễn tả và chuyển hóa Xúc Động
Mỗi lần nói đến « chuyển
hóa Xúc động », chúng ta nói đến hai động tác cần thực hiện : Một là
ý thức về những hiện tượng khá phức tạp đang xuất phát trong nội
tâm. Hai là làm chủ bản thân và đời sống của mình. Có người sử dụng
lối nói : quản lý, chuyển dịch từ tiếng Anh « To manage, Managing,
Management ». Phần tôi, tôi sở hữu hóa lối nói của Kinh Dịch « chuyển
hóa hay là hóa giải », nghĩa là thay vào, khoác vào một bộ mặt, một
hình thức thích ứng hơn, hữu hiệu hơn, có chất lượng làm người hơn.
Tôi xin đan cử một ví dụ : Tức giận là quyền làm người của mỗi người
cần được tôn trọng và cho phép. Nhưng bộc lộ tức giận bằng những tác
phong bạo động, la mắng, nạt nộ, trừng phạt, đánh đập… không thuộc
về chất lượng làm người. Trong quan hệ giữa người với người, chúng
ta cần sáng tạo những hình thức thích hợp hơn.
Theo ý kiến của Tác giả
Douglas STONE, để có thể chuyển hóa một xúc động, chúng ta bắt đầu
bằng động tác THƯƠNG LƯỢNG (8).
Hẳn thực, giữa Tư Duy và
Xúc Động, có những quan hệ nhân quả qua lại hai chiều. Xúc động bắt
nguồn từ một lối nhìn, một cách thuyên giải. Nhưng khi xúc động đã
có mặt trong nội tâm, nhất là những xúc động quá mãnh liệt và tràn
ngập, xúc động lúc bấy giờ sẽ trở lại khống chế tư duy. Trong tình
huống nầy, tư duy trở thành con múa rối, bị xúc động lèo lái, chỉ
huy, trấn áp. Nói khác đi, tư duy không còn hoạt động dưới ánh sáng
của Ý Thức. Tư duy bị khống chế, tê liệt, trong chế độ Vô Thức bắt
nguồn từ xúc động không được nhìn nhận và đón nhận.
Thương lượng là trở lại
với ba nấc thang của Tư Duy, mà tôi đã trình bày truớc đây :
– Nấc thang thứ nhất :
tôi đang thấy gì, tôi đang nghe gì, một cách cụ thể và khách quan.
Sự kiện được ghi nhận là gì ?
– Nấc thang thứ hai : tôi
thuyên giải thế nào. Phía bên kia, sau khi nghe tôi, người đối diện
sẽ thuyên giải theo chiều hướng nào ? Khi có những khác biệt giữa
hai lối nhìn, tôi sẽ đề xuất những quyết định bổ túc thế nào, cho hợp
tình hợp lý ?
– Sau khi thương lương
như vậy, nghĩa là lắng nghe mình và lắng nghe người khác, dưới ánh
sáng chan hòa của ý thức, công việc còn lại là diễn tả chất lượng
làm người, diễn tả một tấm lòng ĐỒNG CẢM của mình.
Sau khi lắng nghe, trao đổi,
tìm hiểu…cả người đối diện cùng với tôi đi đến kết luận nào ? Hay
là tôi vẫn tiếp tục tố cáo ? Vẫn khư khư tin tưởng như đinh đóng là
người kia cố tình chèn ép tôi ? Đối với tôi, lỗi vẫn hoàn toàn thuộc
về phe bên kia ?
Sơ đồ diễn tả đã được tôi
giới thiệu và trình bày trong cuốn sách « Đồng Cảm để Đồng Hành »
(9) :
–
Bước thứ nhất : Khi tôi thấy… tôi nghe…
–
Bước thứ hai : Tôi cảm…
–
Bước thứ ba : Xuyên qua xúc động ấy, tôi cần …
–
Bước thứ bốn : Vậy bây giờ, tôi xin bạn hãy …
Và sau khi diễn tả lòng
mình, chúng ta hãy lắng nghe nỗi lòng của kẻ khác. Khi đón nhận niềm
đau của anh chị em đồng bào, chúng ta sẽ giật mình tĩnh thức, vì thấy
rằng : niềm đau của chúng ta chỉ là hạt nước, trong một đại dương
bao la.
*